Ai đó có thể tưởng tượng được sau khoảng 40 năm nữa, 40 triệu
người Nhật sẽ biến mất? Và nếu xu thế này không thể được cải thiện một
cách đáng kể, 50 năm nữa, dân số Nhật sẽ chỉ tương đương thời điểm năm
1953, tức là cách đây tới 60 năm.
Tốt nghiệp đại học ở Mỹ, với trình độ
tiếng Anh tốt hơn nhiều so với phần đông người Nhật, Kiyoko trở về Nhật
và không quá khó khăn để kiếm được việc làm tốt ở Đài truyền hình NHK.
Sau khoảng thời gian làm việc khá áp lực, cô quyết định chuyển sang
Toyota.
Năm nay đã 33 tuổi, khi được hỏi về hôn
nhân, cô hỏi ngược lại: Tại sao phải kết hôn khi cuộc sống của tôi đang
quá hoàn hảo? Hết giờ làm, tôi đi mua sắm, đi ăn tối với bạn bè, nghe
hòa nhạc. Kết hôn đồng nghĩa với các thú vui trên chấm dứt, bạn phải
ngửa tay xin đàn ông từng đồng, bạn phải ràng buộc số phận mình vào một
người đàn ông mà bạn cũng chẳng biết có tốt với bạn hay không.
Tại một trường đại học ở Niigata, dù năm
nay đã 44 tuổi nhưng Mariko vẫn chưa biết khi nào sẽ là ngày cưới của
mình. Dù đã có bạn trai, nhưng cô vẫn luôn đặt câu hỏi rồi mình sẽ thế
nào nếu kết hôn? Bố mẹ cô đã mệt mỏi với việc thuyết phục cô kết hôn,
mỗi lần về thăm nhà đối với cô chỉ là những câu hỏi gượng gạo. Bố mẹ
luôn cố gắng nghe ngóng, chờ đợi từng cuộc điện thoại của cô với bạn bè
để chờ một tín hiệu kết hôn, cô hiểu điều đó, nhưng để thay đổi tất cả
cuộc sống độc lập cô đang có, không phải dễ dàng.
10 năm học hành ở Mỹ và châu Âu với 2
bằng tiến sỹ, sự nghiệp của cô đang là niềm mơ ước của bao phụ nữ Nhật.
Chấm dứt tất cả để ở nhà làm bà nội trợ chăm con, đâu có dễ. Cùng trường
của cô, kể cả nam và nữ, số lượng giáo sư không lập gia đình chiếm quá
nửa.
Những buổi tối đi dạo dọc các con phố
sôi động, sầm uất của Tokyo, người ta dễ dàng nhận thấy số lượng những
người phụ nữ trẻ dắt chó đi dạo nhiều hơn hẳn so với những phụ nữ đẩy xe
nôi. Trên khắp nước Nhật, sẽ ngày một khó khăn hơn nếu người ta mong có
cơ hội được chứng kiến khoa sản đông đúc kín chật người. Còn ở nhiều
trường mẫu giáo ở Nhật, số lượng phòng học trống đang tăng lên.
Tỷ lệ sinh tại Nhật hiện đang ở mức
1,39, thấp nhất trên thế giới. Từ đầu thập niên 1990, dù chính phủ đã cố
gắng đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ phụ nữ sinh con, thông qua việc kéo
dài thời gian nghỉ sinh cho phụ nữ; hỗ trợ tài chính; giảm số ngày và
giờ làm việc cho phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ, lập nên các trung tâm
hỗ trợ nuôi dạy trẻ em trên khắp nước Nhật. Thậm chí có nhiều chính trị
gia còn tính đến việc cấm phá thai hay bao cấp tiền nuôi con cho các bà
mẹ trong khoảng thời gian nhất định.
Bất chấp tất cả những nỗ lực trên, năm
2003, tỷ lệ sinh của Nhật rớt xuống mức thấp kỷ luc 1,29. Từ năm 2005,
dân số Nhật bắt đầu giảm liên tục cho đến nay. Các chuyên gia ước tính
dân số Nhật từ mức 128 triệu vào năm 2010 sẽ giảm xuống chỉ còn 101
triệu vào năm 2030, đến năm 2048 dân số Nhật sẽ chỉ con 99,13 triệu.
Và đến năm 2060, dân số chỉ còn 86
triệu. Ai đó có thể tưởng tượng được sau khoảng 40 năm nữa, 40 triệu
người Nhật sẽ biến mất? Và nếu xu thế này không thể được cải thiện một
cách đáng kể, 50 năm nữa, dân số Nhật sẽ chỉ tương đương thời điểm năm
1953, tức là cách đây tới 60 năm.
Một nước Nhật bừng tỉnh
Chiến tranh Thế giới thứ Hai kết thúc,
nước Nhật bước theo mô hình phát triển của phương Tây. 3 thập kỷ phát
triển thần kỳ rồi tiếp đó dù phải trải qua đến 3 thập kỷ khó khăn và
bước vào giai đoạn được coi là mất mát, nhưng Nhật vẫn đứng đầu thế giới
về nhiều mặt. Dù vậy, ngay cả những giai đoạn kinh tế phát triển thịnh
vương, phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi.
Cuộc sống của phụ nữ Nhật cho đến trước
thập niên 1970 khi kinh tế dịch vụ và thông tin phát triển mạnh mẽ, phụ
nữ buộc phải kết hôn mới có thể tồn tại được, kể cả về tinh thần và vật
chất. Các kỹ năng, kiến thức mà phụ nữ được học, được dạy dỗ ở Nhật chỉ
để phục vụ cho việc chăm con, chiều chồng. Có lẽ vì lý do này mà ở Việt
Nam từng tồn tại câu nói: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật”. Bằng
việc kết hôn, phụ nữ chuyển họ theo chồng, được đảm bảo về tương lai
kinh tế cũng như được xã hội thừa nhận.
Nếu người phụ nữ có đi làm, họ cũng chỉ
được phân công làm những việc “pha trà rót nước”, kiếm một tấm chồng và
nghỉ việc chăm con. Một thời gian dài, nhiều cô gái cố gắng học hành để
vào được một công ty tử tế, nơi họ có thể tìm được những người chồng
lương cao, đảm bảo được tương lai cho họ, kết hôn với anh ta, và cứ thế
yên tâm ở nhà chăm con bằng lương của người chồng. Ngay cả nếu họ có
muốn thay đổi, xã hội cũng không tạo cơ hội. 30 năm sau Chiến tranh Thế
giới thứ Hai, độ tuổi kết hôn lần đầu của phụ nữ Nhật vẫn ở mức 24,5.
Phụ nữ ngoài 25 tuổi vẫn chưa kết hôn có thể coi như gái ế, điều hết sức
xấu hổ đối với chính bản thân cô gái đó và gia đình.
Khi thành công về kinh tế mang đến cho
xã hội cuộc sống vật chất dư dả hơn, cơ cấu nền kinh tế thay đổi theo
hướng dịch vụ mang đến thêm nhiều việc làm cho phụ nữ hơn, từ cuối thập
niên 1970 cho đến thập niên 1980, xã hội Nhật bừng tỉnh. Văn hóa phương
Tây thâm nhập vào Nhật qua phim ảnh, âm nhạc cũng thay đổi cách suy nghĩ
của phụ nữ Nhật. Đầu thập niên 1990, các công ty nước ngoài tại Nhật
trở nên phấn khích hơn bao giờ hết, họ đua nhau mở thêm cửa hàng cửa
hiệu phục vụ nữ khách hàng, họ mở thêm chi nhánh nhà máy ở Nhật khi họ
được tiếp cận với nguồn nhân lực phụ nữ chăm chỉ làm việc, ít đòi hỏi
hơn người lao động nam.
Từ vị thế phải bám lấy một người đàn ông
và đặt cược toàn bộ cuộc đời của mình vào một người đàn ông, nay phụ nữ
Nhật có việc làm, có tiền, có vị thế để quyết định cuộc đời mình. Lương
cao hơn, chi phí đi lại rẻ hơn, phụ nữ Nhật có tiền đi du lịch hoặc ra
nước ngoài học. Chứng kiến cuộc sống độc lập của phụ nữ phương Tây, phụ
nữ Nhật tự hỏi tại sao họ phải lập gia đình, cuộc sống độc thân giàu có
không vướng bận chẳng phải tuyệt vời hơn rất nhiều hay sao?
Từ chỗ 25 tuổi bị coi là gái ế, chẳng ai
muốn lấy, thì đến nay, kết quả của một số cuộc điều tra xã hội học cho
thấy chỉ 11% phụ nữ Nhật cho rằng kết hôn mang lại lợi ích về tinh thần
và vật chất. Rieko Suzuki, hiện đang là nhà nghiên cứu tại viện Dentsu
hàng đầu tại Nhật, đồng thời là tác giả của hàng chục cuốn sách phân
tích về tình trạng tỷ lệ sinh suy giảm tồi tệ tại Nhật, khẳng định: “Một
người phụ nữ thông minh sẽ không kết hôn để được hưởng cuộc sống hoàn
hảo.”
Độ tuổi kết hôn trung bình của phụ nữ
Nhật hiện tăng lên mức 27,5. Năm 2000, 54% phụ nữ trong độ tuổi 25 đến
29 chưa bao giờ mặc áo cô dâu, con số đã tăng 54% so với thập niên 1980.
Số lượng phụ nữ chưa bao giờ kết hôn tăng chóng mặt với tốc độ 2 con số
qua từng năm. Số lượng phụ nữ Nhật ở tuổi 50 mà chưa bao giờ kết hôn
tăng gấp đôi trong 40 năm qua.
Nếu như ở phương Tây và nhiều nước châu
Á, phụ nữ được khuyên nên sinh đứa con đầu lòng trước tuổi 30 để ngăn
khả năng ung thư vú, đảm bảo sức khỏe bà mẹ trẻ em thì ở Nhật suốt 2
thập kỷ nay, phụ nữ cho biết họ chẳng bao giờ nghe thấy lời khuyên nào
như vậy. Bởi có lẽ chính phủ lo nếu phụ nữ ý thức rõ hơn về điều đó, họ
sẽ còn ngại sinh con hơn nữa.
Một xã hội kiểu Mỹ sẽ phát triển trên đất Nhật?
Dự báo về xã hội Nhật năm 2060 sẽ thực
sự gây sốc với nhiều người. Một xã hội với số dân ngày càng giảm, chẳng
có nhiều lý do để lạc quan. Cấu trúc xã hội Nhật năm 2060 được dự báo
như sau: 40% người già và 10% trẻ em từ 0 đến 14 tuổi, 50% dân số ở
trong độ tuổi lao động và sinh đẻ. Có nghĩa là 1 người làm sẽ để nuôi 1
người. Hiện nay 65% người Nhật đang lao động để nuôi 35% còn lại mà hệ
thống an sinh xã hội còn rất chật vật, không thể tưởng tượng hệ thống an
sinh, quỹ bảo hiểm xã hội và nợ công sẽ diễn biến theo hướng nào khi
nửa dân số làm để nuôi nửa còn lại.
Nếu không thể cải thiện được tình trạng
tỷ lệ sinh quá thấp, chính phủ Nhật sẽ chỉ còn cách phát triển xã hội
theo mô hình Mỹ, có nghĩa khuyến khích nhập cư thật nhiều để đảm bảo lực
lượng lao động cho xã hội. Đầu tháng 6 này, chính phủ Nhật đã quyết
định thay đổi Luật Nhập cư để thu hút thêm lao động cho xã hội Nhật.
Theo đó những người có việc làm ổn định đóng thuế ở Nhật từ 3 năm trở
lên sẽ được tạo điều kiện thuận lợi hơn để cư trú vĩnh viễn ở Nhật.
Nhưng Nhật khác Mỹ, nước Mỹ hàng trăm
năm qua đã quen với việc khuyến khích lao động nhập cư, các ông chủ đã
quen với việc làm việc với người lao động đến từ nhiều quốc gia, tôn
giáo khác nhau. Xã hội Nhật sau nhiều thập kỷ công nghiệp hóa cho đến
tận thời điểm hiện tại còn rất cứng nhắc và không tạo cơ hội công bằng
cho lao động nhập cư. Hơn nữa ngôn ngữ cũng là rào cản lớn, tiếng Nhật
khó học và khó sử dụng hơn tiếng Anh rất nhiều.
Nội tại nước Nhật, với nhiều phụ nữ có điều kiện kinh tế, dù họ chấp nhận sinh con, nhưng họ đang từ chối xã hội Nhật.
Đối với họ, xã hội Nhật quá cứng nhắc,
nguyên tắc và đắt đỏ để con họ có cuộc sống tốt đẹp ở nơi này, nước Úc
đang là điểm đến được nhiều bà mẹ Nhật lựa chọn. Dù vậy, số phụ nữ chọn
không sinh con mới đáng để lo lắng nhất, Kiyoko tuyên bố: “Ở Nhật, chi
phí cuộc sống học tập cho trẻ con quá đắt đỏ, hơn nữa khi có con, bạn
không thể tiếp tục làm việc. Xã hội Nhật hơn nữa còn đánh giá người phụ
nữ quá nhiều qua thành tích nuôi dậy con của cô ta. Sống thể khổ quá,
tôi thà mua thêm vài cái túi Hermes bổ sung vào bộ sưu tập của mình còn
hơn sống vất vả khốn khổ để nuôi một đứa trẻ để nó vào được đại học
Tokyo, trường danh tiếng nhất tại Nhật.”
Theo REDS.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét