Về câu tục ngữ ''làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng''
Theo các tác giả sách Kho tàng tục ngữ người Việt thì câu tục ngữ này đã xuất hiện trong 14 bản sưu tầm khác nhau. Điều đó khẳng định sự phổ biến khá sâu rộng trong thực tiễn tồn tại của câu tục ngữ.
Theo các tác giả sách Kho tàng tục ngữ người Việt thì câu tục ngữ này đã xuất hiện trong 14 bản sưu tầm khác nhau(1). Điều đó khẳng định sự phổ biến khá sâu rộng trong thực tiễn tồn tại của câu tục ngữ.
Từ trước tới nay, nhiều người hiểu nội dung câu tục ngữ là nhằm nêu lên sự so sánh mức thu nhập cao - thấp của hai nghề lao động tương đối phổ biến trong nền kinh tế tiểu nông ở Việt Nam thời phong kiến: nghề “làm thầy” và nghề “làm thợ”.
"Làm thầy" ở đây không chỉ là làm “thầy đồ”, mà còn là làm “thầy bói”, “thầy số”, “thầy đồng”, “thầy cúng”, “thầy địa lí”,... Sự thu hoạch của các thầy (nhất là những thầy làm nghề mê tín dị đoan) trong mỗi kì làm ăn rất lớn và khá thực dụng. Điều đó đã được phản ánh trong một số câu tục ngữ:
- Ít thầy đầy đẫy(2)
- Ít thầy đầy đãy, nhiều thầy chia bảy chia ba(3)
- Thầy bùa thầy bèn oản lèn cạp khố(4)
Nghĩa là: sau mỗi lần hành nghề xong, các thầy không chỉ được ăn uống no say, mà còn thu hoạch được nhiều của cải vật chất mang về nhà để nuôi sống gia đình, vợ con.
Còn “làm thợ” (bao gồm: thợ mộc, thợ nề, thợ sơn, thợ vẽ, thợ bạc, thợ hồ, thợ may... ) thì nhìn chung thu hoạch quá thấp, chỉ đủ để nuôi sống bản thân mà thôi.
Từ sự so sánh trên, câu tục ngữ còn có thêm dị bản: “Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi thân”(5).
Thật ra, nội dung câu tục ngữ “Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng” không hẳn là như vậy. Theo kết quả điều tra điền dã của chúng tôi tại một số địa phương ở xứ Nghệ thì: danh từ “thầy” trong câu tục ngữ là để chỉ “thầy đồ” (người làm nghề dạy học) chứ không nhằm chỉ các loại “thầy” khác; và danh từ “thợ” trong câu tục ngữ là để chỉ “thợ mộc” (người làm nghề thủ công với nguyên liệu sản xuất là gỗ) chứ không nhằm chỉ tất cả các loại “thợ” nói chung. Và động từ “nuôi” xuất hiện trong câu tục ngữ hoàn toàn không có nghĩa “nuôi dưỡng”, “nuôi sống”. Động từ “nuôi” nằm ở vế đầu câu tục ngữ có nghĩa “sưu tầm”, “tích luỹ”, “bổ sung” kiến thức; còn động từ “nuôi” nằm ở vế cuối câu tục ngữ lại có nghĩa “trau chuốt”, “giữ gìn”, “gia công” kĩ thuật.
Đặc biệt từ “vợ” ở trong câu tục ngữ này không phải là từ “vợ” trong cụm danh từ chỉ quan hệ hôn nhân của con người (“vợ - chồng”), mà chính là từ “vở” trong cụm danh từ chỉ đồ vật (“sách - vở”) [do cách phát âm từ địa phương không chuẩn về thanh điệu ở một số vùng của xứ Nghệ cho nên từ “vở” (dấu hỏi) bị nói trại ra thành “vợ” (dấu nặng)]. Và từ “miệng” trong câu tục ngữ này không phải là danh từ chỉ bộ phận thân thể con người (“miệng nói tay làm”), mà chính là từ “mộng” - danh từ chỉ một chi tiết quan trọng trên đồ vật bằng gỗ (tức là cái đầu gỗ đẽo vừa vặn để lắp vào một lỗ đục ở miếng gỗ khác)(6).
Đến đây, nội dung câu tục ngữ “Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng” nên được hiểu là: đối với nghề “làm thầy” (làm “thầy đồ” ngày xưa, làm “thầy giáo” ngày nay) yêu cầu phải có kiến thức uyên bác, sâu rộng và kĩ năng sư phạm để truyền thụ cho học sinh; mà muốn có kiến thức, có kĩ năng thì trước hết người “làm thầy” phải thường xuyên sưu tầm, tích luỹ, sáng tạo sao cho cái “vở” (tập giáo án, giáo trình) của thầy thật phong phú tư liệu, có chiều sâu tư duy, có hệ thống khoa học. Còn nghề “làm thợ” (làm thợ mộc) đòi hỏi tay nghề cao trước hết là ở kĩ thuật gia công bộ phận “mộng” trên vật phẩm sao cho đảm bảo vừa vặn, khít khao, chặt chẽ, không lỏng lẻo, không bị hở, bị vênh, bị lệch.
Rõ ràng nội dung đích thực câu tục ngữ “Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng” chính là sự đúc kết kinh nghiệm nghề nghiệp, bí quyết chuyên môn của nghề làm thầy giáo và nghề làm thợ mộc - vốn là hai nghề lao động sáng tạo có tính phổ biến trong xã hội Việt Nam thời trước đây, cũng như hiện nay.
Trương Xuân Tiếu(TS, Khoa Ngữ văn, Đại học Vinh )
Tạp chí Văn hoá dân gian số 1(91)/04
Theo các tác giả sách Kho tàng tục ngữ người Việt thì câu tục ngữ này đã xuất hiện trong 14 bản sưu tầm khác nhau. Điều đó khẳng định sự phổ biến khá sâu rộng trong thực tiễn tồn tại của câu tục ngữ.
Theo các tác giả sách Kho tàng tục ngữ người Việt thì câu tục ngữ này đã xuất hiện trong 14 bản sưu tầm khác nhau(1). Điều đó khẳng định sự phổ biến khá sâu rộng trong thực tiễn tồn tại của câu tục ngữ.
Từ trước tới nay, nhiều người hiểu nội dung câu tục ngữ là nhằm nêu lên sự so sánh mức thu nhập cao - thấp của hai nghề lao động tương đối phổ biến trong nền kinh tế tiểu nông ở Việt Nam thời phong kiến: nghề “làm thầy” và nghề “làm thợ”.
"Làm thầy" ở đây không chỉ là làm “thầy đồ”, mà còn là làm “thầy bói”, “thầy số”, “thầy đồng”, “thầy cúng”, “thầy địa lí”,... Sự thu hoạch của các thầy (nhất là những thầy làm nghề mê tín dị đoan) trong mỗi kì làm ăn rất lớn và khá thực dụng. Điều đó đã được phản ánh trong một số câu tục ngữ:
- Ít thầy đầy đẫy(2)
- Ít thầy đầy đãy, nhiều thầy chia bảy chia ba(3)
- Thầy bùa thầy bèn oản lèn cạp khố(4)
Nghĩa là: sau mỗi lần hành nghề xong, các thầy không chỉ được ăn uống no say, mà còn thu hoạch được nhiều của cải vật chất mang về nhà để nuôi sống gia đình, vợ con.
Còn “làm thợ” (bao gồm: thợ mộc, thợ nề, thợ sơn, thợ vẽ, thợ bạc, thợ hồ, thợ may... ) thì nhìn chung thu hoạch quá thấp, chỉ đủ để nuôi sống bản thân mà thôi.
Từ sự so sánh trên, câu tục ngữ còn có thêm dị bản: “Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi thân”(5).
Thật ra, nội dung câu tục ngữ “Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng” không hẳn là như vậy. Theo kết quả điều tra điền dã của chúng tôi tại một số địa phương ở xứ Nghệ thì: danh từ “thầy” trong câu tục ngữ là để chỉ “thầy đồ” (người làm nghề dạy học) chứ không nhằm chỉ các loại “thầy” khác; và danh từ “thợ” trong câu tục ngữ là để chỉ “thợ mộc” (người làm nghề thủ công với nguyên liệu sản xuất là gỗ) chứ không nhằm chỉ tất cả các loại “thợ” nói chung. Và động từ “nuôi” xuất hiện trong câu tục ngữ hoàn toàn không có nghĩa “nuôi dưỡng”, “nuôi sống”. Động từ “nuôi” nằm ở vế đầu câu tục ngữ có nghĩa “sưu tầm”, “tích luỹ”, “bổ sung” kiến thức; còn động từ “nuôi” nằm ở vế cuối câu tục ngữ lại có nghĩa “trau chuốt”, “giữ gìn”, “gia công” kĩ thuật.
Đặc biệt từ “vợ” ở trong câu tục ngữ này không phải là từ “vợ” trong cụm danh từ chỉ quan hệ hôn nhân của con người (“vợ - chồng”), mà chính là từ “vở” trong cụm danh từ chỉ đồ vật (“sách - vở”) [do cách phát âm từ địa phương không chuẩn về thanh điệu ở một số vùng của xứ Nghệ cho nên từ “vở” (dấu hỏi) bị nói trại ra thành “vợ” (dấu nặng)]. Và từ “miệng” trong câu tục ngữ này không phải là danh từ chỉ bộ phận thân thể con người (“miệng nói tay làm”), mà chính là từ “mộng” - danh từ chỉ một chi tiết quan trọng trên đồ vật bằng gỗ (tức là cái đầu gỗ đẽo vừa vặn để lắp vào một lỗ đục ở miếng gỗ khác)(6).
Đến đây, nội dung câu tục ngữ “Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng” nên được hiểu là: đối với nghề “làm thầy” (làm “thầy đồ” ngày xưa, làm “thầy giáo” ngày nay) yêu cầu phải có kiến thức uyên bác, sâu rộng và kĩ năng sư phạm để truyền thụ cho học sinh; mà muốn có kiến thức, có kĩ năng thì trước hết người “làm thầy” phải thường xuyên sưu tầm, tích luỹ, sáng tạo sao cho cái “vở” (tập giáo án, giáo trình) của thầy thật phong phú tư liệu, có chiều sâu tư duy, có hệ thống khoa học. Còn nghề “làm thợ” (làm thợ mộc) đòi hỏi tay nghề cao trước hết là ở kĩ thuật gia công bộ phận “mộng” trên vật phẩm sao cho đảm bảo vừa vặn, khít khao, chặt chẽ, không lỏng lẻo, không bị hở, bị vênh, bị lệch.
Rõ ràng nội dung đích thực câu tục ngữ “Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng” chính là sự đúc kết kinh nghiệm nghề nghiệp, bí quyết chuyên môn của nghề làm thầy giáo và nghề làm thợ mộc - vốn là hai nghề lao động sáng tạo có tính phổ biến trong xã hội Việt Nam thời trước đây, cũng như hiện nay.
Trương Xuân Tiếu(TS, Khoa Ngữ văn, Đại học Vinh )
Tạp chí Văn hoá dân gian số 1(91)/04
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét